Dự án NAM LONG TAT - Bàu Bàng

Một trong những dự án hot nhất tại Bình Dương

FB: VĂN THẢO

https://www.facebook.com/profile.php?id=100005285357722

Tuyển dụng nhân viên kinh doanh Bất Động Sản

Mức lương cực kì hấp dẫn

Thông tin về pháp lý, đầu tư

Truy cập trang thường xuyên để biết được nhiều tin mới nhất

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2019

Xã Trừ Văn Thố tổ chức Lễ công bố xã đạt chuẩn Nông thôn mới năm 2018

Sáng ngày 16/05/2019, xã Trừ Văn Thố, huyện Bàu Bàng long trọng tổ chức Lễ công bố xã đạt chuẩn Nông thôn mới năm 2018.
Đến dự lễ có ông Phạm Văn Bông – Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Dương; ông Trần Thanh Liêm – Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy; ông Lê Khắc Tri – Chủ tịch UBND huyện; ông Nguyễn Văn Thương – Phó Chủ tịch UBND huyện; lãnh đạo các cơ quan, ban ngành đoàn thể huyện; lãnh đạo các xã, thị trấn và toàn thể đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương.
Trong 8 năm qua, Đảng bộ, chính quyền xã Trừ Văn Thố đã xây dựng các Nghị quyết, quyết định và kế hoạch phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương, tổ chức tuyên truyền, vận động Nhân dân đoàn kết, nỗ lực, vận dụng, phát huy các nguồn lực tại chỗ và bên ngoài để tập trung thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (NTM). Qua 8 năm chính thức triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM (giai đoạn 2011 – 2018) được sự quan tâm của Đảng bộ, chính quyền các cấp. Đặc biệt là sự quan tâm của lãnh đạo huyện Bàu Bàng cùng với tinh thần đoàn kết “Toàn dân chung sức xây dựng NTM” của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Trừ Văn Thố, xã đã có những chuyển biến, thay đổi rõ nét, tạo sự chuyển biến tích cực về mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội địa phương. Kinh tế phát triển theo hướng bền vững, ổn định, gắn với bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh trật tự, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, tiếp tục nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân. Các công trình trọng điểm như: Chợ nông thôn, Trường học, Trụ sở Cơ quan, trạm y tế, các công trình giao thông được quan tâm đầu tư, xây dựng, mạng lưới điện, hệ thống đèn chiếu sáng được đầu tư đồng bộ… góp phần làm thay đổi rõ nét bộ mặt tổng thể của địa phương. Tính đến nay, cơ cấu kinh tế của địa phương là nông nghiệp, thương mại – dịch vụ, công nghiệp. Trong những năm qua chính quyền xã đã xây dựng, triển khai nhiều giải pháp để hỗ trợ nhân dân phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống, tỷ lệ hộ khá giàu của địa phương ngày càng tăng, tỷ lệ hộ nghèo giảm, hiện hộ nghèo đa chiều theo tiêu chí của tỉnh còn 20 hộ, chiếm tỷ lệ dưới 1%. Thu nhập bình quân đầu người đến nay đạt gần 55 tiệu đồng/1 người/1 năm.
Tính từ năm 2011 đến hết năm 2018 tổng nguồn vốn xây dựng NTM của xã là 1 ngàn 135 tỷ đồng, đa số các nguồn vốn chủ yếu tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng như trụ sở cơ quan, đơn vị, trạm y tế, trường học, trung tâm văn hóa – thể thao, văn phòng ấp, đường GTNT, mạng lưới điện nông thôn, hỗ trợ các nguồn vốn vay ưu đãi để nhân dân phát triển kinh tế, chăn nuôi, trồng trọt... trong đó: Vốn ngân sách nhà nước đầu tư là 432 tỷ 640 triệu đồng, chiếm 38,12%. Vốn vay tín dụng hỗ trợ nhân dân phát triển kinh tế là 144 tỷ 224 triệu đồng, chiếm 12,71%. Vốn doanh nghiệp đóng góp là 45 tỷ 900 triệu đồng, chiếm 4,04%. Đặc biệt nguồn vốn do Nhân dân đóng góp là 512 tỷ 180 triệu đồng, chiếm 45,13%, chiếm gần ½ số vốn đầu tư xây dựng thành công xã NTM, điều này đã minh chứng cho sức mạnh, tinh thần đoàn kết, một lòng “Chung sức xây dựng NTM” của toàn dân xã Trừ Văn Thố.


Lãnh đạo tỉnh, huyện trao bằng công nhận xã đạt chuẩn Nông thôn mới cho Đảng bộ xã Trừ Văn Thố
Tính đến cuối năm 2018 xã Trừ Văn Thố đã hoàn thành 19/19 tiêu chí và 51/51 chỉ tiêu trong chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM và được UBND tỉnh Bình Dương số 764/QĐ-UBND ngày 03/04/2019 của UBND tỉnh Bình Dương công nhận xã Trừ Văn Thố là xã đạt chuẩn chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM năm 2018. Đây là niềm vui, niềm hạnh phúc, niềm tự hào khi nỗ lực, đoàn kết “Chung sức xây dựng NTM” của cả Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân xã Trừ Văn Thố trong suốt những năm qua. Để mang lại điều kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất tốt nhất cho nhân dân được hưởng thụ, mang lại chất lượng cuộc sống ngày càng tươi đẹp, hạnh phúc cho toàn dân địa phương.
Với phương châm “nhà nước và nhân cùng làm” trong thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM đã được xã Trừ Văn Thố vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp vào tình hình thực tế của địa phương. Đã được toàn dân đồng tình tham gia, hưởng ứng tích cực, nhà nhà cùng hăng hái thi đua xây dựng đời sống văn hóa, thi đua lao động, sản xuất nâng cao đời sống vật chất; các công trình phúc lợi, trường học được xây dựng khang trang, kiên cố, khuôn viên nhà cửa được chỉnh trang sạch đẹp; nhiều nhà mới xây mọc lên, con em trong xã phấn khởi được học trong những phòng học kiên cố, cơ sở vật chất đầy đủ… Đây chính là thành quả, là quả ngọt của sự đồng thuận, chung sức xây dựng NTM của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Trừ Văn Thố trong 8 năm qua.

Lãnh đạo địa phương khen thưởng cho các tập thể có nhiều đóng góp cho địa phương trong quá trình xây dựng xã Nông thôn mới
Hiện nay, với nhiều lợi thế về địa hình, về điều kiện tự nhiên, là khu vực kết nói các trục đường quan trọng của huyện, của tỉnh và khu vực tây nguyên, cộng với việc xã giáp ranh với khu công nghiệp Chơn Thành – tỉnh Bình Phước đang có tốc độ phát triển, thu hút đầu tư nhanh… đây chính là những yếu tố thuận lợi để địa phương vươn tầm phát triển.
Dịp này, UBND xã Trừ Văn Thố đã khen thưởng cho 11 tập thể và 12 cá nhân có thành tích xuất sắc đóng góp tích cực cho địa phương trong quá trình triển khai xây dựng xã NTM./.

5 lý do dẫn đến sốt nhà đất Bàu Bàng (Bình Dương)

Cuối năm 2018, người dân địa phương và giới bất động sản đã chứng kiến một cơn sốt đất chưa từng có tại huyện Bàu Bàng. Tình trạng nhà đầu tư và người dân đua nhau mua đất, thậm chí có người bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để gom mua số lượng lớn. Điều này được các chuyên gia lý giải bởi, trong giai đoạn 2020 - 2025 giá đất huyện Bàu Bàng sẽ liên tục tăng, thậm chí sẽ đạt ngưỡng giá vượt ngoài những dự đoán trước đó.
Không ít nhà đầu tư bất động sản ở nhiều nơi khác vào cuộc, điều tra về các quỹ đất, giá thành và tỷ lệ sinh lợi nhuận của nhà đất Bàu Bàng. Từ những gì đã thấy, dễ dàng nhận ra 5 lý do cơ bản khiến các nhà đầu tư bất động sản “cuống cuồng” gom tiền mua đất tại một huyện lỵ chỉ mới thành lập năm 2014 của tỉnh Bình Dương.

Tiềm năng phát triển trong tương lai rất lớn

Xét về tiềm năng phát triển, Bàu Bàng tuy sinh sau đẻ muộn nhưng không thua kém bất kỳ địa phương nào thậm chí được dự kiến sẽ là trung tâm công nghiệp vượt bậc trong thời gian sắp tới. Từ năm 2014 đến nay, chỉ trả qua 5 năm xây dựng nhiều người sẽ không khỏi ngạc nhiên bởi sự thay đổi nhanh chóng của huyện Bàu Bàng.
  • Bình Dương tiếp tục đẩy mạnh phát triển các khu công nghiệp phía Bắc, ưu tiên các chính sách tốt cho những khu công nghiệp mới, quy mô lớn, trong đó khu công nghiệp Bàu Bàng là trọng điểm. Tính đến đầu năm 2019, khu công nghiệp Bàu Bàng đã hoàn thiện 70%, nhiều nhà máy, xí nghiệp đã đi vào hoạt động từ 2 - 3 năm về trước. Điều này ít nhiều đã giúp huyện thu hút đầu tư và dân cư đông đúc hơn.
  • Huyện Bàu Bàng tăng cường thu hút đầu tư và triển khai các dự án: tính đến thời điểm tháng 4/2019, trên địa bàn toàn huyện đã có hơn 600 dự án đầu tư từ trong và ngoài nước, với tổng ngân sách lên đến hơn 2,5 tỷ USD. Trong giai đoạn sắp tới, Bàu Bàng vẫn tiếp tục ưu tiên các dự án phát triển về cơ sở hạ tầng, dân cư, giao thông,... có ngân sách lớn để nhanh chóng hoàn thiện diện mạo và tập trung phát triển kinh tế.
  • Được ra đời với nhiều kỳ vọng của tỉnh Bình Dương, một trong số đó chính là giải quyết áp lực dân cư cho các huyện, thành phố trung tâm tỉnh Bình Dương và hỗ trợ phần nào cho Tp. Hồ Chí Minh. Bên cạnh các dự án công nghiệp, giao thông, cơ sở hạ tầng, dự án xây dựng khu đô thị, khu dân cư cũng sẽ được tạo điều kiện tốt nhất để thực hiện.
Với tốc độ và tình hình tăng trưởng này, trong khoảng 5 - 10 năm tới, huyện Bàu Bàng sẽ nhanh chóng bắt kịp các địa phương lân cận và trở thành một trong những khu vực có thị trường Bất động sản thu hút và khan hiếm bậc nhất tại Bình Dương.
5-ly-do-khien-bat-dong-san-bau-bang-binh-duong-tro-thanh-diem-nong-dau-tu-3
Bàu Bàng sẽ là KCN bậc nhất tại Bình Dương trong tương lai

Giao thông thuận tiện

Công tác đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng và giao thông cho các khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc của tỉnh Bình Dương đã giúp huyện Bàu Bàng thừa hưởng nhiều điều kiện về giao thông. Nếu cách đây 3 - 4 năm, thực trạng giao thông còn nhiều khó khăn, mật độ lưu thông thưa thớt, thì ở thời điểm hiện tại Bàu Bàng tấp nập theo đúng nghĩa của một Khu công nghiệp trọng điểm.
  • Kết nối với Thành phố Hồ Chí Minh bằng tuyến Quốc lộ 13 (Đại lộ Bình Dương): với tổng số 6 làn đường, lưu thông ổn định, ít ùn tắc, việc di chuyển từ Bàu Bàng đến tp. Hồ Chí Minh chỉ mất khoảng 60 phút. Ngoài ra, tuyến Mỹ Phước - Tân Vạn được mở rộng cũng là phương án giải tỏa giao thông hiệu quả cho kết nối này. Tuyến Quốc lộ 13 còn nối liền Bàu Bàng với Bình Phước và các tỉnh Tây Nguyên, tạo điều kiện rất lớn trong việc giao thương.
  • Tuyến đường Mỹ Phước – Tân Vạn được đầu tư mở rộng kéo dài lên Bàu Bàng, rộng rãi thông thoáng, chiều rộng mặt đường lên đến 61m tạo thành chuỗi giao thông liên kết các khu công nghiệp, đô thị từ phía bắc đến phía nam của tỉnh Bình Dương và liên kết với các cảng, khu công nghiệp trọng điểm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
  • Đường Vành đai 4: kết nối Bàu Bàng với 5 tỉnh thành quan trọng của khu vực phía Nam: Vũng Tàu – Đồng Nai – Bình Dương – TP.HCM – Long An. Đường Vành đai 4 dài 197,6 km, rộng 120 m, có 6 làn đường cao tốc và hai làn đường song hành. Tuyến đường này đã mở ra cơ hội giao thương và phát triển rất lớn đối với huyện Bàu Bàng. Đồng thời, hạn chế được thời gian di chuyển đáng kể của người dân.
Huyện Bàu Bàng vẫn đang tiếp tục xây dựng các hạng mục giao thông trên địa bàn toàn huyện, bên cạnh đó vẫn không quên chú trọng vào chất lượng của hệ thống thoát nước và đèn giao thông. Đây cũng là một trong những ưu điểm khiến nhà đất tại huyện Bàu Bàng ngày càng được giá và có nhiều nhà đầu tư, khách hàng chú ý hơn.
5-ly-do-khien-bat-dong-san-bau-bang-binh-duong-tro-thanh-diem-nong-dau-tu-5
Giao thông là điểm đáng chú ý của Bàu Bàng

Giá nhà đất huyện Bàu Bàng đang ở mức rẻ so với nhiều khu vực lân cận

So với mặt bằng bất động sản trên toàn tỉnh, hiện nay giá nhà đất tại huyện Bàu Bàng vẫn đang ở mức thấp hơn khoảng 10 - 25% so với các địa phương trong tỉnh. Nhưng, mức giá tính đến đầu năm 2019 so với cùng kỳ năm 2017 đã tăng gần 25%, điều này là một trong những dấu hiệu đáng mừng cho các nhà đầu tư bất động sản tại đây.
Nếu ở những điểm sốt đất của tỉnh Bình Dương mức giá đất nền có thể lên đến 10 - 15 triệu/m2, thì khu vực đắt nhất tại huyện Bàu Bàng chỉ cán mốc ở mức 9 - 11 triệu/m2. Mặc dù ở thời điểm hiện tại Bàu Bàng chưa thể so sánh với Thủ Dầu Một hay Thành phố Mới - Bình Dương thế nhưng với mức giá khá hợp lý cho khu vực trung tâm huyện thì đây sẽ là một trong những lựa chọn khiến các nhà đầu tư phải phân tâm.
Ở một số trị trí trên địa bàn huyện, mức giá đất nền vẫn ở mức rất thấp, chỉ giao động từ 2 - 5 triệu/m2. Với mức giá khá thấp này, các nhà đầu tư có thể dễ dàng tìm thấy khu vực đất nền ưng ý trên địa bàn.
Mức giá rẻ cũng mở ra cơ hội sở hữu đất hơn đối với các khách hàng có tiềm lực tài chính dưới 1 tỷ, đặc biệt là công nhân. Với mức tài chính giao động từ 450 triệu - 700 triệu, có thể tham khảo đất nền ở các xã như:
  • Đất nền nhà ở xã Long Nguyên, Lai Hưng
  • Đất nền và đất dự án khu đô thị trực thuộc xã Trừ Văn Thố

Quỹ đất lớn, dễ đầu tư, ít cạnh tranh

Với tổng diện tích gần 320km2, huyện Bàu Bàng là một trong những địa phương có diện tích lớn của tỉnh Bình Dương. Bên cạnh các quỹ đất đã quy hoạch để xây dựng khu công nghiệp, thì quỹ đất xây dựng nhà ở và đất dành cho các dự án đầu tư bất động sản còn khá nhiều.
Khảo sát trên địa bàn cho thấy, nhiều địa điểm đắc địa nhưng vẫn khá thưa thớt dân cư như: khu vực sát quốc lộ 13 thuộc xã Lai Hưng, Long Nguyên và Lai Uyên. Việc trên địa bàn chưa có quá nhiều dự án đột phá cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư vào cuộc và tạo được sự thu hút đối tại Bàu Bàng.
5-ly-do-khien-bat-dong-san-bau-bang-binh-duong-tro-thanh-diem-nong-dau-tu-4
Thị trường BĐS sẽ tiếp tục sôi động khi quỹ đất huyện Bàu Bàng còn khá nhiều

Nhiều dự án xây dựng khu đô thị, dự án đất nền nở rộ

Tính từ đầu năm 2018 đến nay, có khoảng vài chục dự án nhà ở, khu đô thị quy mô lớn và vừa mọc lên trên địa bàn. Điều này không chỉ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư và người dân có cơ hội mua đất nền, nhà ở định cư mà còn là cơ hội đầu tư màu mỡ. Vào cuối năm 2018, một cơn sốt đất đã diễn ra, đất ở các khu vực trung tâm, đất mặt tiền đường lớn hầu hết đã có người sở hữu, mũi nhọn đầu tư có xu hướng ưu ái cho đất nền và căn hộ dự án.
Theo các chuyên gia bất động sản, hầu hết các cơn sốt đất đều xuất phát từ việc xây dựng khu đô thị. Bên cạnh số lượng đất nền trực thuộc khu dự án, đất liền kề dự án đô thị cũng theo đó mà tăng giá. Với mức giao động giá chỉ từ 400 triệu/nền trở lên, đất nền dự án trở thành miếng mồi ngon cho các nhà đầu tư và dễ dàng sở hữu cho người lao động thu nhập trung bình.
Bởi chính vì những lý do xứng đáng đầu tư của thị trường bất động sản Bàu Bàng ở trên mà nhiều nhà đầu tư và khách hàng đã đổ xô về đây mua đất. Song song với đó, tỷ lệ tăng giá nhà đất có thể lên đến 20% mỗi năm trong giai đoạn 2020 - 2015 mang lại lợi nhuận khủng cho những nắm bắt thời cơ sở hữu nhà đất trong thời điểm hiện tại.
Để tránh tình trạng giá tăng, cạnh tranh cao người mua cần hoàn thành mọi thủ tục pháp lý trước giai đoạn tết. Khoảng từ tháng 5 đến tháng 10 sẽ là thời điểm thích hợp nhất để đầu tư. Lời ngay 20%, thậm chí gấp đôi ngay sau đầu tư là những hứa hẹn tuyệt vời, nhưng cũng đừng quên kiểm tra kỹ thông tin đất nền tại các cơ quan chức năng và so sánh giá giữa các sàn để đảm bảo an toàn cho việc đầu tư bất động sản tại Bàu Bàng.

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2019

Quy hoạch sử dụng đất TP. Cần Thơ năm 2020.

Tp. Cần Thơ – Một thành phố lớn nhất miền Tây Nam Bộ, được mệnh danh là Tây Đô với bề dày lịch sử trên 270 năm. Cùng với sự phát triển của những thăng trầm lịch sử đến nay TP. Cần Thơ không chỉ là đô thị loại một mà còn là một trong 5 thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam. Tp. Cần Thơ hội tụ đầy đủ các yếu tố về kinh tế, văn hóa, giáo dục, thiên nhiên và con người… tạo điều kiện phát triển kinh tế và thu hút nguồn đầu tư trong và ngoài nước vào Cần Thơ. Có thể nói, đây là một vùng đất đầy triển vọng cho sự phát triển kinh tế trong tất cả các lĩnh vực, là thị trường tiềm năng cho nhiều tập đoàn lớn và là nơi khởi đầu cho những dự án đầu tư mới có tiềm năng trong tương lai,…


Cầu Cần Thơ
Bản đồ hành chính TP. Cần Thơ

Thành phố Cần Thơ có các điểm cực sau:[5]
Đầu 2020 Cần thơ đưa vào sử dụng và một số sửa đổi quy hoạch đất nhằm tái tạo sự phân bố hợp lý và phát triển.
Cụ thể những quy hoạch sử dụng đất của các Quận Huyện Cần Thơ như sau:
  • Phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm 2020 của quận Ninh Kiều
Ngày 4/5/2020, UBND thành phố ban hành Quyết định 1034/QĐ-UBND phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2019 của quận Ninh Kiều.
Theo đó, tổng diện tích đất của quận Ninh Kiều là 2.923,33ha. Trong đó, đất nông nghiệp là 465,56ha, đất phi nông nghiệp là 2.457,77ha, đất đô thị là 2.923,33ha.
Ngoài ra, quận sẽ chuyển đổi đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp 148,86ha; chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất trong nội bộ đất nông nghiệp 103,44ha và chuyển đổi đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở 3,34ha.
UBND thành phố yêu cầu UBND quận Ninh Kiều công bố công khai kế hoạch sử dụng đất năm 2019 đến các phường, các phòng, ban và trên các phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức kiểm tra thường xuyên việc thực hiện kế hoạch sử dụng đất, phối hợp rà soát quy hoạch của các ngành, lĩnh vực có sử dụng đất đảm bảo phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được UBND thành phố phê duyệt.
Ngoài ra, việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch sử dụng đất phải thống nhất chặt chẽ từ quận đến phường, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn quận; có giải pháp cụ thể để huy động vốn và các nguồn lực khác để thực hiện phương án kế hoạch sử dụng đất của quận.


  • Phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm 2020 của quận Bình Thủy
Ngày 29/5/2019, UBND TP Cần Thơ ban hành Quyết định 1265/QĐ-UBND Phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm 2019 của quận Bình Thủy. Theo đó, đất nông nghiệp là 3.451,38ha, đất phi nông nghiệp là 3.661,76ha và đất đô thị là 7.113,15ha.
UBND TP Cần Thơ yêu cầu UBND quận Bình Thủy công bố công khai kế hoạch sử dụng đất năm 2019 đến các phường, các phòng, ban và trên các phương tiện thông tin đại chúng; đồng thời, tổ chức kiểm tra thường xuyên việc thực hiện kế hoạch sử dụng đất, phối hợp rà soát quy hoạch của các ngành, lĩnh vực có sử dụng đất đảm bảo phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được UBND thành phố phê duyệt.
Ngoài ra, việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch sử dụng đất phải thống nhất chặt chẽ từ quận đến phường, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn quận; có giải pháp cụ thể để huy động vốn và các nguồn lực khác để thực hiện phương án kế hoạch sử dụng đất của quận.


Nhà cổ Bình Thủy

  • Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của huyện Phong Điền
Ngày 1/3, UBND thành phố ban hành Quyết định 494/QĐ-UBND Phê duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của huyện Phong Điền. Theo đó, đất nông nghiệp là 10.392,48ha, đất phi nông nghiệp là 2.133,64ha và đất đô thị là 813,39ha.
UBND thành phố yêu cầu UBND huyện Phong Điền công bố công khai điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 đến các xã, thị trấn, các phòng, ban và trên các phương tiện thông tin đại chúng; đồng thời, tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất, rà soát quy hoạch của các ngành, lĩnh vực có sử dụng đất cho phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được UBND thành phố phê duyệt.
Ngoài ra, việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất phải thống nhất chặt chẽ từ huyện đến cấp xã, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn huyện; có giải pháp cụ thể để huy động vốn và các nguồn lực khác để thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất của huyện.


  • Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 quận Cái Răng, TP Cần Thơ
Ngày 1/3/2019, UBND TP Cần Thơ ban hành Quyết định 491/QĐ-UBND Phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 quận Cái Răng, TP Cần Thơ. Theo đó, đất nông nghiệp là 3.610,59ha, đất phi nông nghiệp là 3.066,19ha và đất chưa sử dụng 3,78ha.
UBND thành phố yêu cầu UBND quận Cái Răng công bố công khai điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 đến các phường, các phòng, ban và trên các phương tiện thông tin đại chúng; đồng thời, tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất, rà soát quy hoạch của các ngành, lĩnh vực có sử dụng đất cho phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được UBND thành phố phê duyệt.
Ngoài ra, việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất phải thống nhất chặt chẽ từ quận đến phường, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn quận; có giải pháp cụ thể để huy động vốn và các nguồn lực khác để thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất của quận.
Chợ nổi Cái Răng


  • Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 huyện Cờ Đỏ
Ngày 1/3, UBND thành phố ban hành Quyết định 496/QĐ-UBND Phê duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 huyện Cờ Đỏ. Theo đó, đất nông nghiệp là 28.135,41ha, đất phi nông nghiệp là 3.846,08ha và đất đô thị là 830,84ha.
UBND thành phố yêu cầu UBND huyện Cờ Đỏ công bố công khai điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 đến các xã, thị trấn, các phòng, ban và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời, tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất, rà soát quy hoạch của các ngành, lĩnh vực có sử dụng đất cho phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được UBND thành phố phê duyệt.
Ngoài ra, việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất phải thống nhất chặt chẽ từ huyện đến cấp xã, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn; có giải pháp cụ thể để huy động vốn và các nguồn lực khác để thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất của huyện.

  • Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của huyện Thới Lai
Ngày 1/3, UBND thành phố ban hành Quyết định 495/QĐ-UBND Phê duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của huyện Thới Lai. Theo đó, đất nông nghiệp là 23.562,40ha, đất phi nông nghiệp là 3.130,99ha và đất đô thị là 972,13ha.
UBND thành phố yêu cầu UBND huyện Thới Lai công bố công khai điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 đến các xã, thị trấn, các phòng, ban và trên các phương tiện thông tin đại chúng; đồng thời, tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất, rà soát quy hoạch của các ngành, lĩnh vực có sử dụng đất cho phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được UBND thành phố phê duyệt.
Ngoài ra, việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất phải thống nhất chặt chẽ từ huyện đến cấp xã, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn huyện; có giải pháp cụ thể để huy động vốn và các nguồn lực khác để thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất của huyện.

  • Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của huyện Vĩnh Thạnh
Ngày 1/3, UBND thành phố ban hành Quyết định 493/QĐ-UBND phê duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của huyện Vĩnh Thạnh. Theo đó, đất nông nghiệp là 27.190,97ha, đất phi nông nghiệp là 3.490,11ha.
UBND thành phố yêu cầu UBND huyện Vĩnh Thạnh công bố công khai điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 đến các xã, thị trấn, các phòng, ban và trên các phương tiện thông tin đại chúng; đồng thời, tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất, rà soát quy hoạch của các ngành, lĩnh vực có sử dụng đất cho phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được UBND thành phố phê duyệt.
Quyết định cũng nêu rõ, việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất phải thống nhất chặt chẽ từ huyện đến cấp xã, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn huyện; có giải pháp cụ thể để huy động vốn và các nguồn lực khác để thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất của huyện.

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2019

Hậu Giang phấn đấu đẩy mạnh phát triển nông nghiệp

 Sau hơn 15 năm thành lập, Hậu Giang đang đặt nhiều kỳ vọng phát triển thành trung tâm nông nghiệp xanh của vùng ĐBSCL. Trong mục tiêu góp phần kết nối Hậu Giang với cả nước và ra thế giới, trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn, tiêu biểu về du lịch sinh thái sông nước, sinh thái nông nghiệp của vùng ĐBSCL, UBND tỉnh Hậu Giang ngày 8-7 tổ chức hội thảo “Chung tay làm du lịch nông nghiệp”.
Ông Lê Tiến Châu, Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang phát biểu kết thúc hội thảo.
Lãnh đạo tỉnh Hậu Giang phát biểu khai mạc hội thảo.
Liên quan đến ngành du lịch, Tỉnh ủy Hậu Giang đã có Nghị quyết số 09-NQ/TU về phát triển du lịch tỉnh Hậu Giang đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Trên cở sở này, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 100/KH-UBND và triển khai đề án “Cơ cấu lại ngành du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển thành ngành kinh tế quan trọng”.
Hậu Giang xác định hướng đi phát triển du lịch nông nghiệp xanh và bền vững. Trong ảnh là khu du lịch sinh thái rừng tràm lung bầu nước phèn tại Hậu Giang. Ảnh: TTXVN
Theo đề án cơ cấu lại ngành du lịch, sẽ phát triển Hậu Giang trở thành điểm đến hấp dẫn, tiêu biểu về du lịch sinh thái sông nước, sinh thái nông nghiệp của vùng ĐBSCL, với mục tiêu đến năm 2025, thu hút 1 triệu lượt du khách, trong đó có 70.000 lượt khách quốc tế, doanh thu hơn 1.400 tỉ đồng, tạo việc làm cho 4.200 người dân địa phương.
Với mục tiêu và ý nghĩa quan trọng kể trên, tại hội thảo "Chung tay làm du lịch nông nghiệp", Ban Tổ chức mong muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi, chia sẻ từ các nhà quản lý, nhà xây dựng chính sách, chuyên gia tư vấn, doanh nghiệp lẫn cộng đồng. Hội thảo ngày 7-7 được Đài Phát thanh và Truyền hình Hậu Giang (www.haugiangtivi.vn), Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online (www.thesaigontimes.vn) tường thuật trực tiếp.
Ông Đồng Văn Thanh, Phó chủ tịch thường trực UBND tỉnh Hậu Giang.
Trong phần phát biểu khai mạc hội thảo "Chung tay làm du lịch nông nghiệp) ngày 8-7, ông Đồng Văn Thanh, Phó chủ tịch thường trực UBND tỉnh Hậu Giang, cho biết liên quan đến ngành du lịch, Tỉnh ủy Hậu Giang đã có Nghị quyết số 09-NQ/TU về phát triển du lịch tỉnh Hậu Giang đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Trên cở sở này, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 100/KH-UBND và triển khai đề án “Cơ cấu lại ngành du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển thành ngành kinh tế quan trọng”.
Qua năm năm triển khai Nghị quyết số 09-NQ/TU, đến nay, về hạ tầng du lịch, tỉnh đang tập trung thực hiện một số dự án trọng điểm như:
- Dự án Khu du lịch sinh thái tại Trung tâm nông nghiệp Mùa Xuân.
- Dự án Khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng Phú Hữu.
- Dự án Khu du lịch sinh thái Việt Úc - Hậu Giang thực hiện xong giai đoạn tạo cảnh quan, nạo vét lòng kênh với chiều dài khoảng 14 km, hoàn thành các hạng mục trồng vườn cây ăn trái diện tích trên 13 ha, hình thành vườn chim nhân tạo với diện tích khoảng 4,9 ha, nuôi các loại động vật hoang dã và các loại thủy sản nước ngọt với diện tích 11 ha.
- Dự án xây dựng, khai thác địa điểm Cây Lộc Vừng.
- Riêng với Quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững Khu Bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng đến năm 2020 đã được Tỉnh phê duyệt, trong đó có quy hoạch phát triển du lịch sinh thái. Loại hình dự kiến khai thác là nghỉ dưỡng, khám phá thiên nhiên, giải trí, nghiên cứu khoa học.
Về sản phẩm du lịch, tỉnh đang thực hiện:
-Dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng khoa học kỹ thuật chế biến đa dạng hóa các sản phẩm từ khóm”, bao gồm 06 sản phẩm được chế biến từ khóm, trong đó có rượu khóm. Ngoài ra, cón có các sản phẩm đã đăng ký sở hữu công nghiệp như bưởi năm roi Phú Thành Hậu Giang, cam sành Ngã Bảy, quýt đường Long Trị, cá thát lát Hậu Giang, cam xoàn Phụng Hiệp, khóm Cầu Đúc…
- Tổng cục Du lịch đã hỗ trợ dự án nghiên cứu, phát triển sản phẩm du lịch Hậu Giang, xây dựng các khu, điểm du lịch cộng đồng tại vùng khóm Cầu Đúc (xã Hỏa Tiến, thành phố Vị Thanh), vùng quýt đường Long Trị (thị xã Long Mỹ), Lung Ngọc Hoàng (huyện Phụng Hiệp) và điểm du lịch nông nghiệp tại xã Vị Thanh (huyện Vị Thủy).
- Dự án Bảo tồn và phát huy chợ Nổi Ngã Bảy gắn với du lịch sông nước miệt vườn.
- Mô hình du lịch nông nghiệp gắn với nông thôn mới trên tuyến đường Vị Thanh - Cần Thơ (Quốc lộ 61C) đang được bà con nông dân ở nhiều địa phương trong tỉnh thực hiện...
Ngoài việc đầu tư phát triển hạ tầng du lịch, xây dựng các sản phẩm du lịch, Hậu Giang đang tăng cường công tác quản lý Nhà nước về du lịch, phát triển thị trường, đẩy mạnh quảng bá và xúc tiến du lịch, chuẩn hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ du lịch, nâng cao nhận thức và giáo dục cộng đồng về phát triển du lịch.
Theo ông Thanh, tất cả các phần việc nêu trên cần được quan tâm đầu tư, liên kết thực hiện bài bản và chặt chẽ cả ở trong và ngoài tỉnh, cả trong nước và với quốc tế. Chính vì vậy, tại hội thảo này, nhiều chuyên gia trong và ngoài nước, nhà quản lý, doanh nhân và bà con nông dân làm du lịch có cơ hội chia sẻ về kinh nghiệm làm du lịch nông nghiệp trên thế giới và trong nước. Qua đó, đề xuất kế hoạch hợp tác thiết thực để Hậu Giang phát triển được ngành du lịch, nhất là du lịch nông nghiệp.
Hậu Giang cũng kỳ vọng đón nhận những trải nghiệm thực tế và hữu ích từ hai tỉnh, thành phố là Đồng Tháp và Hội An trong lĩnh vực làm du lịch nông nghiệp, du lịch cộng đồng thông qua những chia sẻ từ ông Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp và ông Nguyễn Sự, nguyên Bí thư Thành ủy Hội An. Ban Tổ chức cũng mong muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi, chia sẻ từ quý vị đại biểu.
Ông Lê Minh Hoan, Bí thư tỉnh ủy tỉnh Đồng Tháp: Phát triển du lịch vì niềm tự hào quê hương
Ông Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Đồng Tháp.
Mở đầu bài tham luận tại hội thảo, ông Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Đồng Tháp nhấn mạnh, mục đích cuối cùng của phát triển du lịch cũng là vì lợi ích kinh tế. Thế nhưng, phát triển du lịch phải vì niềm tự hào, đam mê của quê hương, xứ sở mới có thể làm bằng sự sáng tạo, đam mê và nhiệt huyết, thì mới bán được nhiều sản phẩm hơn. "Cuối cùng cũng vì mục đích kinh tế, nhưng quan trọng chúng ta đặt ra cái nào trước, cái nào sau", ông nói.
Từ ý nghĩa đó, ông Hoan đặt câu hỏi du lịch là gì và tự định nghĩa đây là các hoạt động có liên quan đến "chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định".
Còn du lịch nông nghiệp, theo ông, đó là loại hình du lịch độc lập, với các hoạt động canh tác quy mô lớn ở các trang trại tư nhân, khách du lịch có thể trải nghiệm nhiều hoạt động nông nghiệp khác nhau, theo một chu trình khép kín.
Ở Việt Nam, ông Hoan cho biết, do quy mô canh tác nhỏ, hoạt động sản xuất nông nghiệp thường đan xen với các hoạt động kinh tế khác nên hoạt động du lịch nông nghiệp thường được kết hợp như tham quan ngắm cảnh nông thôn, trải nghiệm văn hóa và cuộc sống người dân địa phương…
Theo ông, du lịch là một ngành "dịch vụ tinh tế đáp ứng điều du khách cần".
Du khách cần gì khi đến Đồng Tháp?
“Chúng ta sẽ không có cơ hội thứ hai để tạo ấn tượng ban đầu với du khách”, ông Hoan nhấn mạnh và cho biết việc tạo ấn tượng ban đầu với du khách là điều rất quan trọng. Để tạo ấn tượng với du khách có thể thông qua thái độ niềm nở, thân thiện, mộc mạc, chân thành, gần gũi; thông qua kỹ năng chào đón khách và tạo ấn tượng có thể từ những quà tặng lưu niệm…
“Du khách muốn trải nghiệm điều gì?”, ông nêu câu hỏi và cho biết du khách thích khám phá vùng đất mới lạ; tìm hiểu nét văn hóa mới; tận hưởng cuộc sống và tiếp xúc con người mới, lạ.
Những điều cần phải lưu ý, theo ông Hoan, đó là du khách cần cái mà họ không có; cái chúng ta cho là ngon, nhưng có thể không ngon đối với du khách; cái chúng ta cho là đẹp, nhưng có thể không đẹp đối với du khách; cái chúng ta cho là sạch, nhưng có thể không sạch đối với du khách...
Theo ông, du khách đi du lịch là để trải nghiệm về "cảnh quan; văn hóa bản địa và ẩm thực". Trong đó, đối với cảnh quan, họ muốn trải nghiệm cảnh nông thôn bình yên, một môi trường trong lành, trải nghiệm làm người dân lao động, hưởng thụ hương đồng gió nội...
Còn với ẩm thực, họ muốn trải nghiệm món ăn, cách chế biến và cách ăn uống của người địa phương. Vì vậy, ẩm thực phải vệ sinh, sạch sẽ từ nhà bếp đến bàn ăn, có ý thức bảo vệ môi trường xung quanh, hướng dẫn du khách thực hiện (không xả rác bừa bãi, không sử dụng sản phẩm nhựa khó phân huỷ như ống hút, túi nylon…). Một điều cần lưu ý thêm đối với ẩm thực, đó là việc nêm nếm thức ăn phải phù hợp với khẩu vị đa dạng của du khách (hạn chế dùng đường, không quá cay, quá mặn, điều chỉnh phù hợp tuỳ theo đối tượng du khách...).
Trong khi đó, với văn hóa bản địa, thì du khách muốn nghe những sự tích, giai thoại, chuyện kể, câu hò điệu lý, âm nhạc truyền thống, sản vật địa phương…
Yếu tố tạo nên sự thành công du lịch cộng đồng
Theo ông Hoan, yếu tố tạo nên sự thành công của du lịch cộng đồng, đó là đòi hỏi cần phải có kiến thức về du lịch của người chủ, người vận hành; có sự ủng hộ, đồng thuận của cộng đồng; cả cộng đồng phải cùng tham gia làm du lịch, có sự phân chia phù hợp về công việc và lợi ích kinh tế; có sự hỗ trợ của chính quyền, mà cụ thể chính quyền phải đồng hành, đầu tư hạ tầng chung, truyền thông kết nối; sự tham gia của ngành chuyên môn thông qua tư vấn, tập huấn.
Từ những vấn đề được đặt ra, ông Hoan một lần nữa hấn mạnh “Phát triển du lịch không chỉ vì lợi ích kinh tế, mà còn là niềm tự hào quê hương, xứ sở”.
Ông Phan Đình Huê, Thạc sĩ Quản trị du lịch Đại học Salzburg (FHS) Cộng hòa Áo, Giám đốc Công ty Dịch vụ du lịch Vòng Tròn Việt, Chuyên gia tư vấn phát triển du lịch ĐBSCL:
"Phát triển du lịch trải nghiệm cùng nhà nông"
Ông Phan Đình Huê, Thạc sĩ Quản trị du lịch Đại học Salzburg (FHS) Cộng hòa Áo, Giám đốc Công ty Dịch vụ du lịch Vòng Tròn Việt.
Trong bài tham luận của mình đã đề xuất chiến lược phát triển du lịch nông nghiệp gắn với Lung Ngọc Hoàng ở tỉnh Hậu Giang. Theo ông Huê, hiện nhiều quốc gia đang phát triển loại hình du lịch trải nghiệm dành cho du khách như nước Úc với trải nghiệm ở nông trại táo và nho; Hà Lan là trải nghiệm trồng hoa; Canada đi vắt sữa, Philippines là du lịch rừng dừa và ở vùng quê Thái Lan là "mỗi làng một sản phẩm”.
ĐBSCL có sản phẩm nông nghiệp, các khu vực nông thôn đa dạng, do đó cần học tập kinh nghiệm từ các nước lân cận về việc xây dựng các tour du lịch trải nghiệm ở nông thôn mang tính riêng biệt nhưng có tính liên kết nhằm tạo thành chuỗi.
Ông Huê có dẫn ra ví dụ làm du lịch nông nghiệp của nước Áo, một nước không có biển và ít sông, cảnh làng quê đẹp, họ xác định làm trang trại du lịch ngay từ đầu. Đây là loại hình du lịch chính nên họ gọi đó là kỳ nghỉ vùng quê - farm holidays. Nguồn thu từ dịch vụ du lịch thường đem lại từ 30 - 40% lợi tức cho nhà nông hoặc chủ đầu tư, nên ngay từ đầu họ thiết kế trang trại là để làm du lịch. Mỗi tỉnh có khu du lịch gắn với các thị trấn nhỏ. Họ có hiệp hội hỗ trợ nông dân làm du lịch. Doanh thu du lịch trên đầu người lớn nhất thế giới. Vì vậy nếu làm tốt du lịch nông nghiệp sẽ cho nguồn thu lớn.
Một trong những yếu tố thành công của du lịch nông nghiệp là gần các đô thị lớn. Nước Áo, như đã nói ở trên, rất thành công với loại hình du lịch này ngoài điều kiện về thiên nhiên sạch - đẹp, hạ tầng tốt, còn có yếu tố giáp với Đức - quốc gia công nghiệp có nhiều thành phố lớn. Với điều kiện đi lại dễ dàng (không cần visa vì chung khối EU), nên nước Đức của cư dân đô thị, chính là thị trường lớn, ổn định của các trang trại “kỳ nghỉ vùng quê” ở Áo.
Theo ông Huê, ĐBSCL có thể hoàn toàn học tập Áo để trở thành một trung tâm du lịch nông nghiệp - nông thôn của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, nhờ các điều kiện sau đây:
- Là đồng bằng lớn có diện tích tương đương 50% nước Áo và cũng là vùng trồng lúa, cây ăn trái tập trung nổi tiếng châu Á, thực phẩm tươi ngon, tôm cá phong phú.
- Cảnh quan rất đẹp nhờ hệ thống sông, rạch, kênh đào, cây thủy sinh và làng xóm ven bờ. Tài nguyên du lịch trên sông vô cùng nhiều.
- Nhân lực dồi dào.
- Khí hậu tốt quanh năm nên có thể làm du lịch cả 4 mùa đặc biệt nắng nhiều.
- Gần vùng đô thị TPHCM và các tỉnh miền Đông, là thị trường du lịch lớn nhất của Việt Nam.
- Giao thông đến ĐBSCL đang được nâng cấp và xây mới, nên có đến hơn ½ diện tích ĐBSCL nằm trong bán kính 3 giờ đi xe ô tô tính từ TPHCM - quãng thời gian di chuyển đẹp nhất đối với khách du lịch.
- Thuận lợi trong tiếp thị bán hàng qua mạng xã hội, thanh toán tiện lợi.
Tuy nhiên, hiện nay có một số vấn đề trở ngại như môi trường bị ô nhiễm, sản xuất sạch chưa phải là xu hướng chủ đạo, thiếu kiến thức phát triển nên còn sao chép nên chưa phù hợp.
Ông Huê chỉ rõ, để loại hình du lịch này trở thành một trong những loại hình du lịch chính, ĐBSCL cần phát triển tuyến sản phẩm sau đây:
- Dịch vụ lữ hành, nhóm nhỏ, gia đình. Nên thành lập các câu lạc bộ để kể các câu chuyện cho khách. Khách muốn trải nghiệm bằng 6 giác quan.
- Trải nghiệm hoạt động nông nghiệp, như đánh bắt cua cá, các trò nhà nông... Tuy nhiên khi về phòng phải lịch sự, sạch. Phải giữ khách càng lâu càng tốt. Đây là phần lưu ý. Nhiều nơi thống kê nhiều khách nhưng thời gian lưu trú ngắn thì không hiệu quả.
- Về vấn đề lưu trú, với các loại hình: homestay, farmstay,  lodge, bungalow, resort, hotel. Tùy mỗi loại hình lưu trú mà chủ nhà / chủ trang trại / nhà đầu tư có cách bố trí dịch vụ khác nhau. Dòng khách của mỗi loại sản phẩm cũng không giống nhau, như khách châu Âu hiện nay thích nhất là ở homestay, lodgevới gió tự nhiên, trong khi khách Việt Nam ưa chuộng ở phòng khách sạn, resort và farmstay có máy lạnh.
-  Ẩm thực
Rau quả sạch, cá tôm nuôi quảng canh là giải pháp hoàn hảo. Du khách thích được tham gia hái rau, chế biến, nấu ăn và làm các loại bánh truyền thống. Nên bán món nào mà không nơi nào bán.
  - Quà tặng
Quà tặng bao gồm đồ lưu niệm, trái cây, hải sản tươi – khô và chế biến. Các loại hàng hóa này phải đạt một số điều kiện như kích thước gọn, nhẹ, bao bì đẹp, chất lượng và thương hiệu rõ ràng, thậm chí dán nhãn chứng nhận quy trình nuôi - trồng - sản xuất, thì khách sẽ rất thích.
Cũng theo ông Huê, Hậu Giang có nhiều lợi thế phát triển du lịch nông nghiệp đó là:
- Có các con đường mà đi có thể xem được đồng lúa. Hậu Giang nằm trên tuyến đường trọng điểm đến Cà Mau.
- Có ruộng lúa, vườn cây ăn trái, đặc biệt là khu vực gần TP Cần Thơ, rất đẹp. Vùng trồng khóm ở Hỏa Lựu là một trong những sự khác biệt lớn, có thể đem đến trải nghiệm mới lạ cho khách châu Âu vì họ ăn loại trái này hoài nhưng chưa từng biết nơi trồng.
- Các con kênh, rạch chảy qua tỉnh là nơi để phát triển du lịch, thể thao trên mặt nước, đồng thời cũng cung cấp view (tầm nhìn) tốt cho các cơ sở lưu trú vùng quê như lodge, resort, bungalow, farmstay.
- Với định hướng xây dựng vùng sản xuất nông nghiệp sạch, thì Hậu Giang không những là điểm đến của các trải nghiệm về nuôi trồng, đánh bắt mà còn gắn liền với thực phẩm tươi ngon, an toàn.
Các chuyến du lịch thường được tổ chức với nhiều dịch vụ đan xen, tạo thành từng “gói” sản phẩm dịch vụ hấp dẫn. Khách đi trải nghiệm các du lịch nông nghiệp cũng đòi hỏi có các điểm tham quan lân cận.
Lung Ngọc Hoàng chính là một điểm cộng hoàn hảo cho các chương trình “kỳ nghỉ vùng quê” ở tỉnh Hậu Giang trong tương lai gần. Đây là một món “hàng độc” chỉ Hậu Giang mới có, lại nằm ngay trung tâm ĐBSCL. Nếu giữ kỹ vùng lõi và định hướng dành cho khách yêu thiên nhiên với các tour chèo xuồng điện, đi bộ hay xe đạp để tham quan, trải nghiệm hệ sinh thái rừng ngập mặn, thì đây sẽ là những chuyến đi tuyệt vời. Lâu nay ít được nhắc đến.
Bên cạnh đó, với việc tiếp giáp TP Cần Thơ và nằm trên tuyến du lịch chính từ thành phố này đến Mũi Cà Mau của khách nội địa, nhất là khách miền Bắc, Hậu Giang cũng hoàn toàn có thể phát triển thêm dòng sản phẩm khác để đón khách từ thị trường tiềm năng này.
Lung Ngọc Hoàng ở Hậu Giang.
Các tài nguyên chính làm trụ cột phát để phát triển là Lung Ngọc Hoàng, Kinh Xáng Xà No, vùng trồng cây ăn quả...
Tỉnh Hậu Giang chọn phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan trọng là một hướng đi bền vững. Ưu điểm của những địa phương đi sau như Hậu Giang là chưa làm lãng phí tài nguyên và cơ hội. Vì vậy để triển khai tốt chiến lược phát triển du lịch này, trong đó có du lịch nông nghiệp, tôi có một vài đề xuất sau đây:
- Cần có hội đồng tư vấn bảo vệ gồm nhiều chuyên gia, các nhà khoa học. Không nơi để 2 nơi có tên Lung Ngọc Hoàng trong tỉnh dễ gây nhầm lẫn.
- Tỉnh cần khảo sát đánh giá đầy đủ tài nguyên, dịch vụ và hạ tầng du lịch, phân tích thị trường và sản phẩm, để từ đó để ra chiến lược phát triển du lịch dài hạn. Cần hướng tới bán trải nghiệm, từ bán hàng hóa thô, dịch vụ đến trải nghiệm.
- Một trong những điểm nghẽn lớn nhất là thiếu kiến thức chuyên môn về du lịch, nên cần đào tạo nâng cao kiến thức về ngành kinh tế du lịch dành cho cán bộ và các chuyên đề về phát triển sản phẩm dành cho các hộ dân.
- Nên mời một số doanh nghiệp, chủ đầu tư có chuyên môn về du lịch để phát triển một số mô hình mẫu về du lịch nông nghiệp gắn với các loại hình lưu trú khác nhau, sau đó nhân rộng ra với các vệ tinh lân cận, thì khả năng thành công sẽ cao hơn.
Ông Stiermann Martin, Giám đốc Khu nghỉ dưỡng Ricefield Lodge ở Cần Thơ: "Không kinh doanh du lịch bằng mọi giá"
Ông Stiermann Martin (bên phải ảnh), Giám đốc Khu nghỉ dưỡng Ricefield Lodge
Ông Stiermann Martin, Giám đốc Khu nghỉ dưỡng Ricefield Lodge khi nói đến Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Lung Ngọc Hoàng của tỉnh Hậu Giang đã gợi ý, địa phương nên lập kế hoạch kinh doanh chuyên nghiệp và từng bước bám sát theo kế hoạch.
Theo ông, cần xây dựng một trụ sở du lịch được trang bị đầy đủ điều kiện để phát triển du lịch, bao gồm trung tâm đào tạo về nông nghiệp hữu cơ; trung tâm đào tạo về du lịch sinh thái về nấu ăn và có thông tin du lịch ở Hậu Giang.
“Dù bạn làm gì, hãy bảo vệ thiên nhiên”, ông Stiermann Martin gợi ý và đưa ra lời khuyên cố gắng tránh làm du lịch theo kiểu tràn lan, thay vào đó hãy làm có chọn lọc. “Làm ít, mà thu được nhiều”, ông nêu kinh nghiệm của bản thân.
Theo ông, cụ thể đối với Lung Ngọc Hoàng, việc khai thác du lịch nên đi theo hướng chỉ sử dụng động cơ chạy bằng năng lượng tái tạo, tạo sự yên tĩnh và không gây ảnh hưởng cho thiên nhiên; nên xây dựng một thương hiệu du lịch cho Hậu Giang dựa trên việc không sử dụng nhựa và không xả rác.
Ông gợi ý, cần quảng bá và trợ giúp các điểm tham quan sẵn có như: chợ nổi, làng nghề sản xuất đồ tre, nhà máy gạo. “Cố gắng tạo điểm khác biệt và tốt hơn các địa phương lân cận, nhưng vẫn phải hợp tác với họ”, ông gợi ý và cho rằng mọi chỉ dẫn, bảng hiệu về du lịch nên có ít nhất hai thứ tiếng, đó là Việt- Anh.
Lung Ngọc Hoàng nổi tiếng của Hậu Giang.
Ông Martin cho biết, thông qua những kinh nghiệm của bản thân, ông có thể giúp Hậu Giang thúc đẩy phát triển du lịch, mà cụ thể có thể giúp tư vấn về các dự án du lịch. Đặc biệt, với lối suy nghĩ “kiểu Đức” của mình, ông sẽ giúp Hậu Giang tạo nên một khái niệm mới; thiết lập một trung tâm đào tạo; tạo ý tưởng về quà lưu niệm mang bản sắc của sự hợp tác; tạo khái niệm về tiếp thị; phát triển và đào tạo một phong cách nấu ăn mới tại Hậu Giang; hỗ trợ các chủ đất tìm ra "một phong cách đích thực" cho hoạt động lưu trú; tạo nên sản phẩm mới dựa trên sản phẩm bản địa.
Ông Nguyễn Sự, nguyên Bí thư Thành ủy thành phố Hội An: "Du lịch nông nghiệp phải gắn kết với cộng đồng"
Ông Nguyễn Sự, anh hùng lao động, nguyên Bí thư Thành ủy thành phố Hội An
Cách đây khoảng 7 năm ông đến vùng Cái Bè, tỉnh Tiền Giang để khảo sát cách làm du lịch của địa phương cùng người dân nơi đây. Sau đó, ông có chuyến đi đến Cao Lãnh (Đồng Tháp) và đã học được nhiều bài học từ chính nhà lãnh đạo, nhà quản lý và người dân nơi đây làm du lịch nơi vùng nông nghiệp.
Từ cuộc hội thảo này, ông nhận thấy quyết tâm của tỉnh Hậu Giang trong việc nhận thức, xác định nhanh du lịch và tầm quan trọng của nhanh này đối với kinh tế địa phương.
Tự nhận là “người kể chuyện” về Hội An, ông Nguyễn Sự đã kể về giai đoạn địa phương này đứng trước thách thức về chuyển đổi phương hướng làm kinh tế, từ gia công, đánh cá, buôn bán quy mô nhỏ chuyển sang làm du lịch.
Hội An “mò mẫm” làm du lịch, bắt đầu bằng việc đi học kinh nghiệm từ các địa phương khác về để áp dụng, tổ chức lại mô hình đó theo thực tế địa phương mình. Bắt đầu từ lĩnh vực dịch vụ lưu trú, nhưng đến nay thì thành phố này đã bước vào giai đoạn hạn chế cấp giấy phép xây dựng cơ sở lưu trú bởi số lượng khách sạn, khu nghỉ dưỡng đã quá nhiều và lượng du khách đã quá tải đối với Hội An.
Ông Sự nhớ lại Hội An bắt đầu làm du lịch từ khu phố cổ, và sau đó chinh quyền địa phương nhận ra rằng Hội An không chỉ gói gọn trong 5 km2 của phố cổ mà phải phát triển du lịch trong sự phát triển kinh tế của hơn 80.000 cư dân sống ở địa phương này.
Qua con đường làm du lịch của Hội An, ông Sự rút ra rằng khi địa phương phát triển du lịch, thứ nhất, phải có sự gắn kết giữa cư dân địa phương cùng chính quyền để cùng tạo ra những sản phẩm, dịch vụ mà chỉ địa phương đó mới có. Cụ thể, sản phẩm du lịch Hội An thì có rất nhiều. Phố cổ là văn hóa vật thể, cho du khách đến. Nhưng, không chỉ là phố cổ, Hội An còn rất nhiều các tài nguyên du lịch. Trong đó, nói về mặt văn hóa, có những làng nghề khác làng nghề nơi khác, ví dụ làng gốm Thanh Hà, làng mộc Kim Bồng... Những nghề đó, nhiều nơi có, nhưng khi đến đây, có sự khác biệt.
Thứ hai, người dân phải biết tận dụng các giá trị tài nguyên thiên nhiên của họ. Ví dụ sông nước, đất đai, con trâu, cánh cò, rừng dừa, bãi biển... để tạo nên sản phẩm du lịch trên chính mảnh đất của họ. Con trâu thông thường dùng để đi cày ruộng, nhưng người Hội An biết dùng con trâu đó để cho du khách đi tắm trâu, cưỡi trâu, cày ruộng... còn người nông dân họ thu được tiền dịch vụ này. Rồi cũng với những cánh đồng đó, khi lúa đã không mang lại nhiều tiền cho người nông dân thì doanh nghiệp họ trả tiền cho người nông dân mấy mùa vụ đó, trong khi người nông dân vẫn canh tác, lúa họ vẫn thu hoạch; và khi có du khách đến, người nông dân sẽ ra đi cày, bừa, gặt lúa cùng du khách và có thêm tiền dịch vụ này. Còn thuyền thúng, khi xưa dùng để đi vớt cá, nhưng giờ thuyền thúng đó lại chở du khách đi kéo lưới, chơi trò lắc thúng. Khách không thu hoạch cá, mà để trải nghiệm, đắm mình vào thiên nhiên, sông nước và người ta cảm thấy sung sướng.
Thứ ba, phát triển du lịch nông nghiệp phải gắn bó với phát triển cộng đồng; bởi, chính cộng đồng làm du lịch, giữ gìn và bảo tồn tài nguyên, tạo nên hồn phách cho những sản phẩm du lịch. Du lịch cộng đồng là ngành kinh tế làm cho người dân cảm thấy gắn bó, bảo vệ tốt môi trường.
Làm du lịch cộng đồng tốt hay không tốt thì không chỉ có doanh nghiệp làm du lịch hưởng lợi hay bị ảnh hưởng mà cả cộng đồng nơi địa phương đó sẽ cùng hưởng lợi hoặc cùng bị ảnh hưởng. Họ đang đi chung trên một con thuyền du lịch, nếu có sóng to gió lớn làm con thuyền chao đảo thì họ cũng bị ảnh hưởng. Nên buộc lòng mọi người phải đoàn kết, chèo chống với nhau, làm cho con thuyền vượt qua sóng to gió cả để đi đến bờ. Đó là bài học bền vững của làm du lịch cộng đồng.
Chính vì vậy, theo ông Sự, làm du lịch nông nghiệp cần chú trọng bốn điểm chính.
Thứ nhất, du lịch nông nghiệp phải gắn bó với du lịch cộng đồng.
Thứ hai, cần có trọng điểm trong làm du lịch nông nghiệp, phát triển du lịch gắn với mục tiêu bảo vệ môi trường, thay đổi nếp ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên.
Thứ ba, phải mang lại lợi ích chính đáng cho cộng đồng.
Thứ tư, quyết tâm của các cấp lãnh đạo chính quyền. Bản thân địa phương phải dựa trên hai nền tảng: đi lên bằng văn hóa của chính minh, đi lên bằng yếu tố “thuận tự nhiên” của mình. Từ đó, giữ cho sự phát triển của ngành du lịch đi theo hướng bền vững, không chụp giật.
Bà Nguyễn Thị Lý, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hậu Giang:
" Cần xây dựng chiến lược maketing phù hợp"
Bà Nguyễn Thị Lý cho biết, xu hướng con người tìm về với thiên nhiên trong lành, chú trọng sử dụng các thực phẩm xanh, sạch, rẻ đang được ưa chuộng. Xuất phát từ đó, mô hình du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp đã ra đời và ngày càng được chú trọng phát triển.
Cũng theo bà Lý, đây là hình thức xuất khẩu hàng hóa nông nghiệp tại chỗ rất hiệu quả, tiếp thị tận gốc xuất xứ của sản phẩm, nhất là khi nhu cầu về việc tự bảo vệ sức khỏe của cộng đồng xã hội trước nguy cơ ô nhiễm môi trường tại các thành phố lớn ngày càng tăng. Du lịch nông nghiệp còn là hình thức phát triển mối giao hòa về mặt tự nhiên, văn hóa và con người giữa các vùng đô thị và nông thôn, thông qua việc đến ở hoặc tham quan với mục đích hưởng thụ các sản vật địa phương tại từng hộ nông dân, hoặc trang trại.
Du lịch nông nghiệp hiện có vai trò vừa mang lại hiệu quả kinh tế cho các hộ dân trong nông thôn và cho toàn thể khu vực vừa góp phần giảm nghèo cho địa phương, đồng thời còn mang đến nhiều lợi ích khác cho cộng đồng dân cư địa phương, giúp cho hoạt động trao đổi văn hóa và giúp nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường.
Hậu Giang là tỉnh thuộc tiểu vùng Tây sông Hậu, phía Bắc tiếp giáp thành phố Cần Thơ, phía Đông giáp sông Hậu và tỉnh Vĩnh Long, phía Nam giáp tỉnh Sóc Trăng, phía Tây giáp tỉnh Bạc Liêu và Kiên Giang. Hậu Giang là tỉnh thuần nông, với hơn 75% dân số sinh sống ở nông thôn và làm kinh tế nông nghiệp. Là một trong những địa phương có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, có diện tích lớn về cây ăn trái, lúa và nguồn thủy sản phong phú. Một số thương hiệu nông sản cũng đã góp mặt trên thị trường khu vực và cả nước như: Bưởi Năm Roi, bưởi hồ lô, cam sành Ngã Bảy, quýt đường Long Trị, khóm Cầu Đúc, cá thát lát, cá rô đồng...  đây là những điều kiện để Hậu Giang phát triển du lịch nông nghiệp.
Tỉnh Hậu Giang xác định loại hình du lịch nông nghiệp là bước đi có tính định hướng và bền vững, điều đó đã được thể hiện trong các văn bản chỉ đạo như: Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 10 tháng 6 năm 2014 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XII về về phát triển du lịch tỉnh Hậu Giang đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và Kế hoạch số 100/KH-UBND ngày 26 tháng 11 năm 2014 của UBND tỉnh Hậu Giang về việc thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TU; Quy hoạch ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hậu Giang đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 đã được UBND tỉnh phê duyệt và Chương trình, Kế hoạch phát triển du lịch của các địa phương trong tỉnh.
Tuy khái niệm phát triển du lịch nông nghiệp còn khá mới mẻ nhưng thời gian qua trên địa bàn tỉnh đã hình thành vài điểm tham quan du lịch nông nghiệp như: vườn dâu Thiên Ân (thị xã Ngã Bảy), các vườn trái cây ở huyện Châu Thành A, vùng khóm Cầu Đúc (thành phố Vị Thanh), homestay Kim Lân, điểm du lịch nông nghiệp trên đường nối Vị Thanh - Cần Thơ (huyện Vị Thủy),…
Trong quá trình phát triển loại hình này tỉnh Hậu Giang đã nhận được sự hỗ trợ của Tổng cục Du lịch từ Chương trình mục tiêu quốc gia về Du lịch hỗ trợ một số trang thiết bị cần thiết cho 4 hộ dân vùng khóm Cầu Đúc, 2 hộ ở vùng quýt đường Long Trị, 1 hộ thuộc xã Vị Thanh, huyện Vị Thủy; ngành du lịch tỉnh Hậu Giang đã phối hợp với các địa phương khảo sát các điểm có tiềm năng phát triển du lịch nông nghiệp, xây dựng mô hình mẫu (thí điểm đường nối Vị Thanh - Cần Thơ) và đưa vào khai thác, mô hình được đánh giá là khai thác hiệu quả và đang được nhân rộng tại các địa phương trong tỉnh.
Thời gian qua trên địa bàn tỉnh đã hình thành vài điểm tham quan du lịch nông nghiệp như: vườn dâu Thiên Ân (thị xã Ngã Bảy), các vườn trái cây ở huyện Châu Thành A, vùng khóm Cầu Đúc (thành phố Vị Thanh), homestay Kim Lân, điểm du lịch nông nghiệp trên đường nối Vị Thanh - Cần Thơ (huyện Vị Thủy),…
Bên cạnh đó, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch còn tổ chức nhiều chuyến đi khảo sát, học tập kinh nghiệm về cách làm du lịch nông nghiệp ở một số địa phương tương đồng về điều kiện tự nhiên cho các hộ nông dân có tiềm năng và mong muốn làm du lịch... Tuy nhiên, việc phát triển loại hình du lịch nông nghiệp ở Hậu Giang đang gặp nhiều khó khăn, thách thức, đó là:
- Điều kiện sinh thái tương đồng với các địa phương trong vùng ĐBSCL và các tỉnh đã phát triển loại hình du lịch nông nghiệp trong thời gian dài. Hoạt động du lịch nông nghiệp ở Hậu Giang chủ yếu mang tính tự phát, nhỏ lẻ, trùng lắp, na ná về mô hình cách thức tổ chức thực hiện với các địa phương lân cận nên khiến sự cạnh tranh giữa các điểm đến ngày càng gay gắt.
- Người nông dân chỉ quen sản xuất nông nghiệp, không có các kỹ năng để phục vụ khách du lịch theo hướng chuyên nghiệp nên hiệu quả không cao.
- Sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính nhỏ lẻ, manh mún; sản phẩm nông nghiệp chủ yếu dưới dạng thô; lượng sản phẩm sản xuất ra không ổn định, theo mùa vụ...
- Điều kiện kinh tế xã hội của địa phương những năm qua tuy có khởi sắc nhưng vẫn còn khó khăn nhất là ở vùng nông thôn. Hạ tầng giao thông đến các điểm du lịch nông nghiệp chưa thuận tiện. Hạ tầng kỹ thuật phục vụ du lịch còn còn thiếu và yếu.
- Nhận thức cho cấp ủy, chính quyền các cấp và người dân địa phương về phát triển du lịch nói chung và du lịch nông nghiệp nói riêng có nâng lên nhưng chưa đồng đều. Khái niệm về du lịch nông nghiệp còn khá mới mẻ ở địa phương cấp xã và huyện nên việc tư vấn, hỗ trợ người dân trong việc định hướng phát triển còn lúng túng và chưa bài bản.
- Chưa xây dựng được chính sách hỗ trợ cụ thể cho người dân tham gia đầu tư phát triển lĩnh vực du lịch.
- Thị trường du lịch kém sôi động, công tác quảng bá xúc tiến còn yếu (các công ty lữ hành ngoài tỉnh chưa sẵn sàng kết nối vì các điểm du lịch nông nghiệp ở Hậu Giang chưa thực sự hấp dẫn, thiếu chuyên nghiệp.
- Cả tỉnh hiện không có đơn vị kinh doanh lữ hành nên việc hỗ trợ, kết nối, đưa đón khách không thực hiện được; từ đó cũng tạo tâm lý không an tâm, không có nguồn khách ổn định nên người dân chưa ủng hộ, chưa mạnh dạn đầu tư phát triển nông nghiệp gắn với khai thác du lịch).
Giải pháp phát triển du lịch gắn với nông nghiệp ở Hậu Giang:
Để đẩy mạnh việc phát triển du lịch gắn với nông nghiệp trong thời gian tới, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề xuất một số giải pháp như sau:
- Trước hết, các cấp chính quyền cần tiến hành khảo sát, đánh giá đầy đủ, toàn diện về mô hình này trên địa bàn, từ đó xây dựng quy hoạch, đề ra các chính sách hỗ trợ phát triển hợp lý.
- Thứ hai, vấn đề đòi hỏi lớn nhất là cần có sự đồng tâm, đồng lực của các cấp chính quyền địa phương trong việc quy hoạch và phát triển du lịch nông nghiệp, trong đó cần xác định rõ chủ thể chính tham gia xây dựng và phát triển loại hình này là cộng đồng và người dân. Chính quyền cần lắng nghe mong muốn của người dân, từ đó xác định ý định tham gia của người dân vào phát triển du lịch nông nghiệp và có những tư vấn, hỗ trợ phù hợp.
- Thứ ba, cần có sự liên kết mạnh mẽ với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long với nhau, cũng như với TPHCM để xây dựng những tuyến du lịch, xây dựng các tour du lịch liên tỉnh.
- Thứ tư, đẩy mạnh sự liên kết chặt chẽ giữa các bên liên quan (bà con nông dân, doanh nghiệp lữ hành, chính quyền địa phương, cơ quan quản lý du lịch, nông nghiệp, thương mại) trong mô hình phát triển du lịch nông nghiệp.
- Thứ năm, cần có kế hoạch tập huấn, đào tạo nhân lực nông nghiệp song song với công cuộc đào tạo cho bà con nông dân phát triển du lịch một cách chuyên nghiệp, có hiệu quả hơn. Tổ chức cho nông dân có điều kiện và có tâm huyết làm du lịch tham gia các đợt học tập kinh nghiệm mô hình du lịch nông nghiệp đã làm ăn hiệu quả ở các địa phương có điều kiện tương đồng với tỉnh Hậu Giang, từ đó có những sáng tạo trong xây dựng mô hình phù hợp.
- Thứ sáu, quy hoạch các giống cây trồng, phân chia theo từng khu vực và từng loại cây trồng. Việc quy hoạch phải sát với tình hình thực tế của địa phương và có thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng chủng loại trên thị trường.
- Thứ bảy, hoạt động du lịch nông nghiệp gắn liền với các hoạt động sản xuất nông nghiệp nên phải cung cấp hướng dẫn kỹ thuật, kiến thức canh tác nông nghiệp theo tiêu chuẩn VietGAP cho người dân. Đặc biệt là phát triển và bảo tồn các sản phẩm bản địa để tạo nguồn cung cấp lương thực tại chỗ, giảm giá thành và tạo ra các sản phẩm nông nghiệp đặc trưng của địa phương và chế biến thành sản phẩm phục vụ du lịch độc đáo.
- Thứ tám, xây dựng chiến lược maketing phù hợp. Tăng cường mở rộng thị trường và tuyên truyền quảng bá cho các chương trình du lịch nông nghiệp được xây dựng trên cơ sở bảo đảm quan hệ giữa khai thác và phát triển bền vững tài nguyên, kết hợp phát triển du lịch với phát triển nông thôn, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Nhà nước là đầu mối liên kết, hỗ trợ người dân trong việc mời gọi các doanh nghiệp lữ hành tham gia khảo sát và tổ chức kết nối các tour, tuyến vì hầu hết người dân không có manh mối hoặc rất ít giao tiếp với thị trường. Các doanh nghiệp lữ hành sẽ là đơn vị cung cấp nguồn đầu tư, các kỹ năng cần thiết trong việc phục vụ khách du lịch, là nơi thiết lập mối liên kết giữa cộng đồng với thị trường nội địa và thị trường du lịch quốc tế.
Phần thảo luận:
Câu hỏi dành cho ông Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp: “Cùng nhau làm du lịch, là trải nghiệm chính của Đồng Tháp, như ông đã nhấn mạnh. Vậy tới đây, Đồng Tháp và Hậu Giang sẽ “cùng nhau làm du lịch nông nghiệp” như thế nào cho hiệu quả trong mối liên kết chung ở ĐBSCL, đặc biệt trước sức ép của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0?”.
Ông Lê Minh Hoan: Trong thời gian gần đây, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang có những tác động không nhỏ đến các ngành nghề, lĩnh vực trong nền kinh tế. Du lịch là một loại hình sản phẩm, dịch vụ cần có tình cảm, sự sáng tạo của con người. Do đó, theo quan điểm của tôi, du lịch sẽ không bị ảnh hưởng nhiều từ mặt trái của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Bên cạnh đó, du lịch nông nghiệp xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, các thế mạnh và ưu thế riêng về văn hóa bản địa và nền nông nghiệp của từng địa phương, chính vì thế, các sản phẩm của nó sẽ được đa dạng hóa và ngày căng trở nên phong phú nếu có sự đồng tâm hiệp lực từ cấp chính quyền và cộng đồng doanh nghiệp, cư dân.
Về việc “Đồng Tháp và Hậu Giang cùng nhau làm du lịch nông nghiệp”, tôi cho rằng cần chú trọng sự liên kết, hợp tác giữa các địa phương để cùng nhau phát triển du lịch nông nghiệp xanh, từ đó, tạo hiệu quả trong mối liên kết chung của vung ĐBSCL hướng đến phát triển bền vững.
Xin hỏi ông Nguyễn Sự, nguyên Bí thư Thành ủy Hội An: “Nếu tới đây, Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang mời ông về Hậu Giang tư vấn làm du lịch nông nghiệp, như Đồng Tháp và Bến Tre đang làm, ông dự tính sẽ làm những gì trước hết tại Hậu Giang?
Ông Nguyễn Sự: Hậu Giang thì tôi chưa hiểu nhiều. Nhưng theo tôi :Hãy làm cái chúng ta đang có chứ đừng làm cái không có. Chúng ta phải đi lên từ chính mình. Với các tỉnh như Đồng Tháp, Hậu Giang... nguyên liệu làm du lịch nông nghiệp có thể giống nhau nhưng sản phẩm phải khác biệt.
Ông Lê Thanh Phong, Phó chủ tịch Hiệp hội du lịch ĐBSCL
Phát biểu thảo luận tại buổi hội thảo, ông Lê Thanh Phong, Phó chủ tịch Hiệp hội du lịch ĐBSCL cho biết, khi nói đến du lịch của Hậu Giang, thì rõ ràng địa phương không được thiên nhiên ưu đãi, mà cụ thể là điều kiện giao thông tiếp cận các điểm đến còn khó khăn. "Anh Huê (ông Phan Đình Huê) nói Hậu Giang có trục du lịch đi về Cà Mau, nhưng khi đi Cà Mau chúng ta đi ngõ Sóc Trăng, chứ đâu đi ngõ Hậu Giang", ông cho biết và tái nhấn mạnh "Đây (Hậu Giang) là địa phương khuất nẻo".
Chính vì vậy, để giúp Hậu Giang phát triển du lịch, ông Phong cho biết, có mấy việc Hậu Giang có thể làm ngay, đó là với Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng hay vùng nông nghiệp Phú Hữu (huyện Châu Thành), thì phải dựa vào sản phẩm chủ lực nông nghiệp để phát triển du lịch.
Kế đến, theo ông, điều quan trọng nhất là Hậu Giang phải làm lại quy hoạch để tiếp cận được điểm đến. Ngoài ra, phải xác định con người là yếu tố quan trọng nhất trong phát triển du lịch cộng đồng. "Sản phẩm du lịch Hội An không phải xa lạ, nhưng hàm chứa trong sản phẩm đó chính là con người", ông nhấn mạnh và cho rằng cần phải nâng cao kỹ năng cho người làm du lịch.
Cuối cùng, theo ông, làm du lịch nông nghiệp phải gắn chặt yếu tố cộng đồng, tìm kiếm lợi ích trên tinh thần bảo vệ thiên nhiên, bảo tồn văn hóa. "Không thể làm du lịch mà doanh nghiệp lữ hành thì ngày càng giàu lên, trong khi người dân thì nghèo đi", ông nhấn mạnh.
Trong khuôn khổ cuộc hội thảo "Chung tay làm du lịch nông nghiệp", một số cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp đã tiến hành ký kết ba biên bản ghi nhớ.
Thứ nhất, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hậu Giang; Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Hậu Giang; Công ty TNHH Dịch vụ du lịch Vòng Tròn Việt đã ký kết biên bản ghi nhớ về phát triển du lịch nông nghiệp và du lịch cộng đồng tại tỉnh Hậu Giang.
Thứ hai, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hậu Giang; Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Hậu Giang; Công ty Stiermann Martin Ricefield Lodge ký kết bản ghi nhớ về hợp tác để phát triển ẩm thực dành cho khách du lịch và đầu tư một điểm du lịch tại tỉnh Hậu Giang.
Thứ ba, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hậu Giang; Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Hậu Giang; Công ty TNHH HTC Vị Thanh ký kết bản ghi nhớ về việc hợp tác để phát triển loại hình du lịch sinh thái dành để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước tại tỉnh Hậu Giang.
Ông Lê Tiến Châu, Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang phát biểu kết thúc hội thảo.
Sau hơn ba giờ diễn ra hội thảo, thay mặt Ban Tổ chức, ông Lê Tiến Châu, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang, đã phát biểu kết luận sự kiện.
Theo ông Châu, hội thảo đã diễn ra thành công tốt đẹp theo đúng mục tiêu, yêu cầu đề ra; trong đó có việc ký kết ba bản ghi nhớ hợp tác ngay tại sự kiện. Đây là hoạt động tiếp nối chuỗi Diễn đàn Kinh tế Xanh 2018, hội thảo “Giúp nông dân làm nông thông minh”, nhằm thúc đẩy “liên kết truyền thông” trong thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội với kỳ vọng xây dựng một “Hậu Giang xanh”, với hình ảnh những người nông dân Hậu Giang có kiến thức, hạnh phúc và được làm giàu trên chính mảnh ruộng vườn quê hương mình.
Hội thảo đã cung cấp những trải nghiệm, thông tin hữu ích, thông qua những ý kiến thảo luận, chia sẻ rất nhiệt thành và trách nhiệm từ các nhà quản lý, nhà doanh nghiệp, nhà nông và nhà báo; đặc biệt là các giải pháp rất cụ thể trong liên kết làm du lịch nông nghiệp - một loại hình du lịch hiện đại đang thịnh hành trên thế giới và khởi sự tại Việt Nam, nhằm gắn kinh tế, đời sống cộng đồng của người dân với bảo vệ môi trường tự nhiên và mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực, bền vững.
Ông Châu bày tỏ niềm ấn tượng với tham luận của ông Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp chia sẻ về cách bà nông dân Đồng Tháp “cùng nhau làm du lịch” thông qua các Hội quán nông dân với phương châm: “Cùng nhau xây dựng, cùng nhau quản trị, cùng nhau thụ hưởng”, không chỉ dựa vào những vườn hoa, cây trái, thửa ruộng... hữu hình, mà còn phải biết khai thác vốn văn hóa bản địa, vốn xã hội của cộng đồng dân cư tại địa phương dựa vào năm yếu tố: gia đình hòa thuận - lợi ích cộng đồng - đam mê cháy bỏng - đổi mới sáng tạo và nhất là tạo ra được môi trường hài hòa, thân thiện, giàu bản sắc. Quan trọng là người lãnh đạo, từ tỉnh đến xã, phải thực sự cầu thị, hiểu, chia sẻ, hỗ trợ và định hướng cho bà con nông dân tự làm du lịch.
Chia sẻ của ông Nguyễn Sự, nguyên Bí thư Thành ủy Hội An, nơi mà thương hiệu du lịch cộng đồng Hội An đã nổi tiếng trên thế giới. Bài học ở Hội An là người Hội An đã biết tận dụng các giá trị tài nguyên thiên nhiên như sông nước, đất đai, con trâu, cánh cò, rừng dừa, bãi biển... để tạo nên sản phẩm du lịch riêng không giống nơi khác, trên chính mảnh đất của mình. Người Hội An đã biết khai thác các giá trị của chính mình để tạo ra thương hiệu cho mình. Du lịch cộng đồng giúp cho người dân cảm thấy gắn bó, bảo vệ tốt môi trường. Cộng đồng cùng làm, cùng hưởng lợi. Họ đang đi chung trên một con thuyền du lịch, nếu có sóng to gió lớn làm con thuyền chao đảo thì họ cũng bị ảnh hưởng nên mọi người phải đoàn kết để đi đến bến bờ. Đó là bài học phát triển bền vững của du lịch Hội An.
Ông Phan Đình Huê, Giám đốc Công ty Dịch vụ du lịch Vòng tròn Việt và ông Stierman Martin, Giám đốc Khu nghỉ dưỡng Ricefield Loge về những cách làm du lịch nông nghiệp thành công trên thế giới và tại đồng bằng sông Cửu Long. Riêng với Khu Bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng – một viên ngọc quý hiếm của Việt Nam rộng hơn 2.800 ha ở ngay tại Hậu Giang - hai vị diễn giả đã có những kiến nghị hết sức bổ ích về cách liên kết khai thác sản phẩm du lịch sinh thái theo hướng bảo tồn và, tập trung vào phân khúc khách du lịch cao cấp.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hậu Giang cũng đã có những đề xuất  rất thực tế về 08 giải pháp phát triển du lịch gắn với nông nghiệp tại Tỉnh cùng nhiều ý kiến chung tay làm du lịch nông nghiệp rất hữu ích từ quý vị đại biểu. Cùng nhiều vấn đề và các đại biểu và bà con nông dân, người làm du lịch đặt ra, và được các chuyên gia, diễn giả giải đáp, trao đổi trực tiếp.
Thay mặt lãnh đạo tỉnh, ông Châu cho biết địa phươnhg ghi nhận những chia sẻ hết sức thiết thực cho sự phát triển của du lịch Hậu Giang trong thời gian tới; tất cả nội dung của hội thảo ngày 8-7 sẽ là nguồn tư liệu, kinh nghiệm quý giá, tạo tiền đề quan trọng giúp Hậu Giang phát triển thành công thương hiệu du lịch của tỉnh nhà.
Những chia sẻ tại hội thảo là hết sức thiết thực, bổ ích, đã giúp Hậu Giang nhận diện được định hướng phát triển ngành du lịch nói chung và du lịch nông nghiệp nói riêng trong bối cảnh hiện nay; và định vị được thực trạng du lịch tỉnh đang ở đâu trong mắt các chuyên gia, nhà khoa khọc và đặc biệt là những vị khách du lịch.
Chủ tịch UBND tỉnh ví von Hậu Giang giống như một "cô gái đẹp" đang ngủ say và cần được đánh thức, với "viên ngọc xanh" Lung Ngọc Hoàng, Chợ nổi Ngã 7 đi vào bài hát Tình anh bán chiếu, Trúc lâm thiền viện, Rừng tràm Vị Thủy, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp thông minh, sáng tạo... và đặc biệt là người Hậu Giang mến khách, nghĩa tình, thủy chung. Hậu Giang tuy giàu tiềm năng, nhưng mới chỉ bước những bước ban đầu, chưa có nhiều sản phẩm du lịch ấn tượng được thương mại hóa và cạnh tranh được với các địa phương khác trong khu vực.
Tuy nhiên, trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra từng ngày từng, giờ, làm thay đổi tư duy và phương thức sản xuất trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực du lịch, Hậu Giang nhận thức rằng, mặc dù du lịch nông nghiệp của tỉnh nhà còn ở mức tiềm năng nhưng ở khía cạnh đầu tư, đây lại là lợi thế lớn nếu chúng ta cùng nhau hợp tác và quyết tâm đi những bước thật nhanh, đúng hướng, đón đầu xu hướng thế giới. Hậu Giang sẵn sàn hợp tác và cần tiếp nhận công nghệ làm du lịch, để làm giàu hơn, đặc sắc hơn các sản phẩm du lịch hiện có, thích ứng với nhu cầu của thị trường va phải làm sao để du khách biết đến Hậu Giang và các sản phẩm du lịch đó.
Nhằm phát huy kết quả từ hội thảo ngày 8-7, khai thác tiềm năng du lịch nông nghiệp to lớn của địa phương, ông Châu đề nghị thủ trưởng các sở, ngành, đoàn thể tỉnh và các địa phương nghiêm túc ghi nhận, tiếp thu và vận dụng vào quá trình chỉ đạo, điều hành công việc của đơn vị, địa phương mình. Bên cạnh đó, ông nhấn mạnh thêm một số nội dung để các sở, ngành, đoàn thể tỉnh và các địa phương quan tâm, tập trung thực hiện như sau:
Thú nhất, ngành du lịch có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của mọi địa phương; đây là ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Đối với Tỉnh Hậu Giang, phát triển du lịch không chỉ nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà quan trọng hơn là bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa, và đặc sắc của quê hương, con người Hậu Giang. Cùng với định hướng phát triển một Hậu Giang xanh, trở thành trung tâm nông nghiệp của khu vực, phát triển du lịch nông nghiệp, gắn với làm nông nghiệp thông minh là định hướng đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Hậu Giang và nhu cầu của thị trường.
Muốn làm được điều này, trước hết Hậu Giang (chính quyền địa phương, người dân, doanh nghiệp làm du lịch và nhà báo), cần thay đổi nhận thức, đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển du lịch theo quy luật kinh tế thị trường, không phải cung cấp cho thị trường sản phẩm chúng ta có mà phải cung cấp những sản phẩm du lịch thật sự đặc sắc trong mắt những vị khách du lịch. Mỗi công dân Hậu Giang, đang sinh sống tại Hậu Giang hay trên mọi miền đất nước, trên thế giới phải hiểu và trân trọng trước hết là giá trị gia đình, sau đó là  giá trị thiên nhiên, văn hóa của tỉnh nhà, để từ đó, mỗi người dân là một hướng dẫn viên du lịch, quảng bá Hậu Giang tới những người xung quanh.
Thứ hai, những vấn đề đã trao đổi tại hội thảo ngày 8-7 cần phải được nghiên cứu thêm và tiếp tục trao đổi cụ thể khi triển khai thực tế, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động cho người dân, nhất là những người trực tiếp tham gia làm du lịch. Do đó, UBND tỉnh đề nghị Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tập hợp đầy đủ tài liệu để công bố công khai trên Công thông tin điện tử của tỉnh, của sở và UBND các huyện, thị xã, thành phố để mọi đối tượng quan tâm có thể tiếp cận và nghiên cứu, hoàn thành trước ngày 15-7.
Chủ tịch UBND tỉnh cũng giao Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch chủ động phối hợp với Đài Phát thanh và Truyền hình Hậu Giang, các đơn vị hữu quan và các doanh nghiệp đã ký kết bản ghi nhớ hợp tác ngày 8-7, bàn chi tiết để hình thành những dự án hợp tác du lịch phù hợp với tình hình thực tế của Tỉnh, trình UBND tỉnh xem xét, cho ý kiến trước ngày 15-8.
Riêng đối với dự án hợp tác khai thác du lịch sinh thái tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng, phải phối hợp thật tốt về mặt pháp lý với Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ban Quản lý Khu Bảo tồn Lung Ngọc Hoàng trên cơ sở các quy hoạch đã phê duyệt và các quy định của Chính phủ về tổ chức và quản lý hệ thống rừng đặc dụng.
Xúc tiến, mời gọi một số doanh nghiệp, chủ đầu tư có năng lực tài chính, có chuyên môn về du lịch để phát triển một số mô hình mẫu về du lịch nông nghiệp gắn với các loại hình lưu trú khác nhau, sau đó nhân rộng ra các khu vực lân cận để tăng khả năng thành công. Trong đó, phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thí điểm xây dựng một số mô hình làm nông nghiệp thông minh kết hợp du lịch, báo cáo UBND tỉnh trong tháng 7 này;
Tăng cường hợp tác với các tỉnh, thành trong khu vực để liên kết, mở rộng thị trường và mời gọi các doanh nghiệp du lịch đến khảo sát các điểm du lịch trên địa bàn Hậu Giang.
Thứ tư, đẩy mạnh việc liên kết truyền thông để quảng bá cho du lịch Tỉnh nhà, để hình ảnh đất và người Hậu Giang được giới thiệu rộng rãi đến du khách, bạn bè trong nước và quốc tế: Với nội dung này, ông Châu đề nghị Đài Phát thanh và Truyền hình Hậu Giang phối hợp tốt với chính quyền các cấp, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các doanh nghiệp, hộ dân làm du lịch và các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, đề nghị Đài Phát thanh và Truyền hình Hậu Giang, nghiên cứu mở thêm chuyên mục “Du lịch nông nghiệp Hậu Giang” (hiện Đài đang thực hiện các chương trình về du lịch như: Hương gây mùi nhớ - về ẩm thực Hậu Giang; Hậu Giang mến yêu - về các điểm đến); trước hết, khai thác tối đa những thông tin từ hội thảo ngày 8-7 đã đặt ra.
Thứ năm, đối với các huyện, thị xã, thành phố, trên cơ sở kế hoạch phát triển du lịch của địa phương mình (tám đơn vị đều đã xây dựng kế hoạch), tiến hành khảo sát, đánh giá toàn diện tiềm năng phát triển du lịch nông nghiệp trên địa bàn, từ đó có giải pháp phát triển phù hợp các sản phẩm chủ lực, nhưng cần lưu ý có trọng tâm, trọng điểm, không phát triển ồ ạt, chạy theo số lượng, đảm bảo cung cấp sản phẩm chất lượng, mang tính cạnh tranh, nghiên cứu áp dụng các mô hình du lịch nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đã xây dựng, khai thác.
Trong quá trình phát triển sản phẩm du lịch nông nghiệp cần lưu ý gắn với phát triển làng nghề truyền thống ở địa phương, với chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) nhằm khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh của khu vực nông thôn, ưu tiên đầu tư khai thác hiệu quả các sản phẩm làng nghề truyền thống mang bản sắc văn hóa dân tộc.
Ông Châu cho rằng hội tụ và lan tỏa, hợp tác để cùng phát triển và thành công là xu thế tất yếu trong thế giới hiện đại, và kỳ vọng, những giá trị đã trao đổi tại sự kiện ngày 8-7 sẽ không dừng lại trong khuôn khổ của hội thảo, mà lãnh đạo tỉnh Hậu Giang mong muốn tiếp tục có cơ hội hợp tác với các vị diễn giả, các doanh nghiệp, nhà báo, và các đối tác để chung tay phát triển du lịch nông nghiệp của tỉnh Hậu Giang, và xa hơn nữa là của khu vực ĐBSCL.